LUẬT AN NINH MẠNG – NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN HIỂU CHO ĐÚNG
LUẬT AN NINH MẠNG –
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN HIỂU CHO ĐÚNG
1. Sự cần thiết phải ban
hành Luật An ninh mạng
Với sự phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ, không gian mạng trở thành một bộ phận cấu
thành không thể thiếu và đóng vai trò quan trọng trong xây dựng xã hội thông
tin và phát triển kinh tế tri thức. Sự phát triển bùng nổ của công nghệ mang
tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, Internet của vạn vật, máy tính lượng tử, điện toán đám mây, hệ thống dữ liệu lớn, hệ thống
dữ liệu nhanh… đã làm không gian mạng thay đổi sâu sắc cả về chất và lượng,
được dự báo sẽ mang lại những lợi ích chưa từng có cho xã hội loài người nhưng
cũng làm xuất hiện những nguy cơ tiềm ẩn vô cùng lớn. Nhiều quốc gia đã nhận
thức rõ về những mối đe dọa đối với an ninh mạng, coi đây là thách thức mới,
mối đe dọa mới có tầm quan trọng và nguy hiểm cao nên đã cụ thể hóa thành các
văn bản chính sách, văn bản pháp luật như luật hoặc văn bản dưới luật tại hơn
80 quốc gia, tổ chức, liên minh quốc tế như Mỹ, Anh, Đức, Hà Lan, Pháp, Canada,
Hàn Quốc, NATO… nhằm tạo ra các thiết chế, cơ sở pháp lý chống lại các nguy cơ
đe dọa đến an ninh quốc gia từ không gian mạng; thành lập các lực lượng chuyên
trách về an ninh mạng, tình báo mạng, chiến tranh mạng, phòng chống khủng bố
mạng và tội phạm mạng. Chỉ trong vòng 06 năm trở lại đây, đã có 23 quốc gia
trên thế giới ban hành trên 40 văn bản luật về an ninh mạng.
Ở nước ta, ứng
dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin trong các lĩnh vực của đời sống
đã góp phần to lớn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, phát
huy sức sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế về an ninh mạng cần khắc phục như: (1) Tiềm lực quốc gia về an ninh mạng
của nước ta chưa đủ mạnh, chưa huy động, khai thác được sức mạnh tổng hợp để
đối phó với các mối đe dọa trên không gian mạng. (2) Không gian mạng và một số loại hình dịch vụ, ứng dụng công nghệ
thông tin đang bị các thế lực thù địch, phản động sử dụng để thực hiện âm mưu
tiến hành “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, “diễn biến hòa bình” nhằm xóa
bỏ chế độ chính trị ở nước ta. Tình trạng đăng tải thông tin sai sự thật, làm
nhục, vu khống tổ chức, cá nhân tràn lan trên không gian mạng nhưng chưa có
biện pháp quản lý hữu hiệu, dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc về nhân mạng, tinh
thần, thậm chí ảnh hưởng tới chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội. (3) Ngày càng xuất hiện
nhiều cuộc tấn công mạng với quy mô lớn, cường độ cao, gia tăng về tính chất
nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội. Khủng bố mạng nổi lên như một thách thức đe dọa nghiêm trọng
tới an ninh quốc gia. Hoạt động phạm tội trên không gian mạng ngày càng gia
tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, ảnh
hưởng đến tư tưởng, văn hóa, xã hội. (4)
Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia chưa được xác định và bảo vệ
bằng các biện pháp tương xứng. Do chưa xác định nội hàm sự cố an ninh mạng nên
khi xảy ra các sự cố nguy hại, ảnh hưởng tới chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội, việc triển khai hoạt động ứng phó, xử lý, khắc
phục hậu quả của cơ quan chức năng có liên quan rất lúng túng, chưa có quy
trình thống nhất, cơ quan có trách nhiệm bảo vệ an ninh mạng chưa thể chủ động
triển khai các biện pháp, phương án phù hợp. (5) Tình hình lộ, lọt bí mật nhà nước qua không gian mạng rất đáng
lo ngại, nhiều văn bản thuộc bí mật nhà nước bị đăng tải trên không gian mạng.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng trên là do nhận thức
của các cơ quan, doanh nghiệp và cá nhân về bảo vệ bí mật nhà nước trên không
gian mạng còn hạn chế, ý thức trách nhiệm của nhiều cán bộ, nhân viên trong bảo
mật thông tin trên không gian mạng còn chưa cao, chế tài xử phạt chưa đủ răn
đe. (6) Sự phụ thuộc vào thiết bị
công nghệ thông tin có nguồn gốc từ nước ngoài. Không gian mạng đang ứng dụng
sâu rộng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tuy nhiên, sự phụ thuộc vào
trang thiết bị công nghệ thông tin xuất xứ từ nước ngoài là mối đe dọa tiềm
tàng đối với an ninh mạng nếu xảy ra xung đột. Để tránh bị tin tặc tấn công,
thu thập thông tin, hoạt động tình báo, một số sản phẩm, dịch vụ mạng cần đáp ứng
các tiêu chuẩn, quy chuẩn nhất định, nhất là khi các sản phẩm, dịch vụ này được
sử dụng trong hệ thống thông tin quan trọng và an ninh quốc gia, địa điểm cơ
yếu, bảo mật, chứa đựng bí mật nhà nước.
(7) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an ninh mạng chưa được xây dựng,
các văn bản hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh, xử lý
các hành vi sử dụng không gian mạng vi phạm pháp luật.
Thực trạng trên đã
đặt đất nước ta trước những nguy cơ:
Một là, sự phát triển của mạng
xã hội góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, song cũng tạo môi
trường thuận lợi cho các hoạt động tác động, chuyển hóa chính trị, khủng bố.
Hai là, sự phát triển của trí
tuệ nhân tạo đã và đang tạo ra những thành tựu khoa học công nghệ vượt trội,
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội
nhưng cũng được dự báo sẽ gây nên “thảm họa” nếu không được kiểm soát chặt chẽ.
Ba là, các thiết bị kết nối
internet ngày càng phổ biến không chỉ mang lại những lợi ích to lớn cho cuộc
sống con người, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh mà
còn có thể bị sử dụng để tiến hành các cuộc tấn công mạng quy mô lớn.
Bốn là, các cuộc tấn công mạng có chủ đích
(Advanced Peristent Threat - APT) không chỉ có thể phá hoại các mục tiêu, công
trình quan trọng về an ninh quốc gia mà còn chiếm đoạt thông tin, tài liệu bí
mật, chiếm đoạt để sử dụng các hệ thống dữ liệu lớn, dữ liệu nhanh phục vụ các
ý đồ chính trị và hoạt động phạm tội.
Thực trạng, nguy
cơ trên đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng và ban hành văn bản luật về
an ninh mạng để phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi sử dụng không gian
mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Mục đích xây dựng Luật
An ninh mạng
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý ổn định về an ninh mạng theo
hướng áp dụng các quy định pháp luật một cách đồng bộ, khả thi trong thực tiễn
thi hành.
- Phát huy các nguồn lực của đất nước để bảo đảm an ninh mạng, phát triển
lĩnh vực an ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên không gian mạng, xây dựng môi
trường không gian mạng lành mạnh.
- Triển khai công tác an ninh mạng trên phạm vi toàn quốc, đẩy mạnh công
tác giám sát, dự báo, ứng phó và diễn tập ứng phó sự cố an ninh mạng, bảo vệ hệ
thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; đảm bảo hiệu quả công tác quản
lý nhà nước trong lĩnh vực này.
- Nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng, hoàn thiện chính sách nghiên
cứu, phát triển chiến lược, chia sẻ thông tin về an ninh mạng.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về an ninh mạng trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với pháp luật trong nước và điều ước
quốc tế mà nước ta tham gia ký kết.
3. Nội dung cơ bản của Luật An ninh mạng
Luật An ninh mạng gồm 07 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ
bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động
bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bảo vệ an ninh
mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia là một trong
những nội dung đặc biệt quan trọng của Luật An ninh mạng. Quy định đầy đủ các
biện pháp, hoạt động bảo vệ tương xứng với mức độ quan trọng của hệ thống thông
tin này, trong đó nêu ra tiêu chí xác định, lĩnh vực liên quan, quy định các
biện pháp như thẩm định an ninh mạng, đánh giá điều kiện, kiểm tra, giám sát an
ninh và ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia.
Để bảo vệ tối đa
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Luật An ninh mạng đã dành 01 chương (Chương
III) quy định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ
các nguy cơ đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm:
phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an
ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế; phòng, chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật
công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử
dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố
mạng; phòng, chống chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về
an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh mạng. Đây là hành lang pháp lý vững chắc
để người dân có thể yên tâm buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian
mạng.
Chương IV của Luật
An ninh mạng tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một
cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan
nhà nước và tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động
kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này.
Cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một
trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ, sự
tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc
sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của người khác sẽ được xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển
an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an
ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không
gian mạng cũng được quy định chi tiết trong Chương này.
Hiện nay, dữ liệu
của nước ta trên không gian mạng đã và đang bị sử dụng tràn lan với mục đích
lợi nhuận mà Nhà nước chưa có đủ hành lang pháp lý để quản lý, thậm chí là bị
sử dụng vào các âm mưu chính trị hoặc vi phạm pháp luật. Để quản lý chặt chẽ,
bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng
đã quy định doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng
viễn thông, mạng internet và các dịch vụ giá trị gia tăng trên không gian mạng
tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về
thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do
người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam
trong thời gian theo quy định của Chính phủ.
Nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng là một trong
những yếu tố quyết định sự thành bại của công tác bảo vệ an ninh mạng. Chương V
Luật An ninh mạng đã quy định đầy đủ các nội dung bảo đảm triển khai hoạt động
bảo vệ an ninh mạng, xác định lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ưu
tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao, chú trọng giáo dục, bồi
dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng.
Trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân cũng
được quy định rõ trong Luật An ninh mạng, tập trung vào trách nhiệm của lực
lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành chức năng, ủy ban nhân dân
cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ các biện pháp được phân công để hướng
tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các hành vi vi phạm pháp
luật trên không gian mạng.
Mặc dù được chuẩn bị kỹ lưỡng, được đa số Đại biểu
Quốc hội tán thành, nhưng do đây là đạo luật có quy định về phòng ngừa, đấu
tranh, xử lý trực tiếp các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian
mạng nên vẫn còn có những ý kiến băn khoăn về nội dung Luật. Một số đối tượng
chống đối đã có hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc với những luận điệu như
“chống lại loài người”, “bịt miệng dân chủ”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “tạo
rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”, “thêm giấy phép con”,
“lạm quyền”, “cấm sử dụng Facebook, Google”. Đây là những thông tin hoàn toàn
bịa đặt, xuyên tạc, với mục đích cản trở hoặc gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ
trong quần chúng nhân dân đối với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về an ninh mạng. Luật An ninh mạng không có những quy định nêu
trên, không tạo rào cản, không tăng thủ tục hành chính, không cấp giấy phép con
và không cản trở hoạt động bình thường, đúng luật của các tổ chức, cá nhân.
4. Ý
nghĩa, tác dụng của Luật An ninh mạng
Luật An ninh mạng được thông qua có ý nghĩa, tác
dụng sau đây:
Thứ nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ an
ninh quốc gia; xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật, như: (*) Chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm sử dụng không gian mạng tổ
chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn
luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ví dụ như thông
tin kích động lôi kéo tụ tập đông người, gây rối an ninh trật tự, chống người thi
hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, gây mất ổn định về an
ninh trật tự... (*) Các hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách
mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối
xử về giới, phân biệt chủng tộc; (*) Các hành vi phát tán thông tin gây hại cho
tổ chức, cá nhân, gồm: thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây
thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ
quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; (*) Các hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã
hội như sử dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán
người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục
của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội. (Những hành vi này đã được
quy định rải rác, cụ thể trong 29 Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi
năm 2017). (*) Các hành vi tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng và liên
quan như sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành
vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy
tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện
điện tử...
Thứ hai, nhằm bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng
về an ninh quốc gia. Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được quy
định trong Luật An ninh mạng là hệ thống thông tin khi bị sự cố, xâm nhập,
chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt, tấn công
hoặc phá hoại sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh mạng. Với tiêu chí như trên, hệ
thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được xác định trong các lĩnh vực
quan trọng đặc biệt đối với quốc gia như quân sự, an ninh, ngoại giao, cơ yếu;
trong lĩnh vực đặc thù như lưu trữ, xử lý
thông tin thuộc bí mật nhà nước; phục vụ hoạt động của các công trình quan
trọng liên quan tới an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia
hoặc những hệ thống thông tin quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, tài
chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường, hóa
chất, y tế, văn hóa, báo chí. Chính phủ sẽ quy định cụ thể những hệ thống thông
tin nào trong các lĩnh vực nêu trên thuộc Danh mục hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia.
Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia được giao cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh
mạng, trực tiếp là lực lượng An ninh mạng thuộc Bộ Công an, lực lượng Tác chiến
Không gian mạng thuộc Bộ Quốc phòng. Để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật
trong nước, Luật An ninh mạng cũng giao Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp
giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cơ yếu Chính
phủ, các bộ, ngành chức năng trong việc thẩm định, đánh giá, kiểm tra, giám
sát, ứng phó, khắc phục sự cố đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia.
Thứ ba, nhằm phòng, chống
tấn công mạng. Luật An ninh mạng là văn bản Luật đầu tiên quy định khái niệm
của hoạt động “tấn công mạng”. Theo đó “Tấn
công mạng là hành vi sử dụng không
gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để phá hoại, gây gián
đoạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống
thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện
điện tử”. Đồng thời, quy định các nhóm hành vi cụ thể liên quan tới tấn công
mạng tại Điều 17, 18, 19, 20 và Điều 21; quy định cụ thể các nhóm giải pháp cụ
thể để phòng, chống tấn công mạng, quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan chức
năng, chủ quản hệ thống thông tin. Như vậy:
- Hệ thống thông tin
của cơ quan, tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước hoạt động tấn công mạng theo
quy định của Luật An ninh mạng.
- Các hệ thống thông
tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ tương xứng với tầm quan trọng
đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước các hành vi tấn công mạng.
- Luật An ninh mạng
cũng quy định cụ thể cơ chế phối hợp phòng, chống tấn công mạng của các bộ,
ngành chức năng, xác định trách nhiệm cụ thể của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ban
Cơ yếu Chính phủ trong phòng, chống tấn công mạng.
5. Đẩy mạnh các hoạt động công
tác tuyên truyền
Để tạo sự thống nhất trong cán bộ, đảng viên, sự đồng
thuận trong xã hội về Luật An ninh mạng; góp phần đấu tranh, phản bác lại các
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phần tử
phản động, số cơ hội chính trị, không bị lôi kéo, tham gia vào các hoạt động tụ
tập đông người, gây mất trật tự an ninh, công tác tuyên truyền cần tập trung
làm tốt một số việc sau:
Thông
tin, tuyên truyền, giải thích rõ những nội dung cơ bản của Luật An ninh mạng; làm
rõ sự cần thiết, mục đích ban hành và ý nghĩa của Luật An ninh mạng, nhất là
những vấn đề còn gây hiểu lầm, bức xúc trong dư luận. Việc thông qua và ban
hành Luật An ninh mạng là nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời về “chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, bảo đảm tính hệ thống, phù hợp với từng thời
kỳ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sử dụng Internet,
không trái với các thông lệ và các cam kết quốc tế.
Đấu
tranh, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội chính trị, nhất là sự cấu kết giữa lực lượng phản động Việt Tân với các chức sắc tôn giáo cực đoan lợi dụng việc ban hành
Luật An ninh mạng và Dự thảo Luật đặc khu để tung tin sai trái, bịa đặt, dàn
cảnh vu khống các lực lượng thực thi pháp luật, phát tán các thông tin bịa đặt
trên các trang mạng hòng hướng lái dư
luận theo hướng bất lợi, gây tâm lý hoang mạng nghi ngờ trong quần chúng nhân
dân với các luận điệu xuyên tạc như “đàn
áp bất đồng chứng kiến”, “đi ngược với giá trị tiến bộ”, “chống lại loài
người”, “tạo rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”..., nhằm khởi
xướng phong trào “bất tuân Luật An ninh mạng”, kích động, lôi kéo, xúi giục
quần chúng tuần hành, biểu tình, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Tăng
cường bám sát cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc
của nhân dân để chủ động, kịp thời xử lý và tham mưu cho cấp trên biện pháp
giải quyết./.
Nhận xét
Đăng nhận xét