Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trong các văn bản pháp luật quốc tế
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những
quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận
trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật
của nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện
quyền này trong hệ thống pháp luật của mình.
1.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế
Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ra đời khá sớm trong lịch sử loài người. Trong lịch
sử thời kỳ cổ đại, trung đại hay các chế độ quân chủ phong kiến đều dựa trên
một tôn giáo chính thống để làm nền
tảng ổn định xã hội. Trong
khi đó, vấn đề bạo lực, khủng bố, kết tội tôn giáo hoặc chiến tranh
tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra.
Vì vậy, nhu cầu lớn đầu tiên trong quyền tự do tôn giáo với
rất nhiều quốc gia là nhu cầu mỗi cá
nhân có thể đi theo một tín ngưỡng,
tôn giáo riêng hay thay
đổi tôn giáo mà không sợ bị chính phủ phạt tội hoặc các “tôn giáo chính thống” trả
thù.
Trong tiến trình vận động của lịch sử,
quan niệm về tự do tôn giáo dần dần trở nên hoàn thiện hơn. Tuyên ngôn Độc lập
của Hoa Kỳ năm 1776 đã đề cập đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn
giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá
nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, song cũng chưa đề cập một cách cụ thể: “Mỗi
người đều được phát biểu tư tưởng tự do, về tôn giáo cũng
vậy, miễn là những tư tưởng phát biểu đó không làm tổn thương đến nền trật tự
công cộng đã được pháp luật ấn định phân minh”. Luật Phân ly nổi tiếng của nước Pháp năm 1905 cũng đề cập đến vấn đề tự do thờ
cúng.
Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, quan
niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông
qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền ngày 10-12-1948, thì tự do
tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế.
Trên phạm vi quốc tế, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong một số văn bản chính trị bao gồm các
văn bản mang tính chất tuyên ngôn như: Hiến
chương của Liên hợp quốc năm
1945, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948; các văn bản mang tính chất
pháp lý như: Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Trong đó, Hiến chương của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền là những văn bản tuy
không có tính ràng buộc pháp lý, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định các nguyên tắc và định hướng đạo lý, chính trị của quyền con người nói
chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Công ước là văn bản có tính
ràng buộc pháp lý, bao gồm các nội dung cụ thể về quyền con người và các quốc
gia thành
viên chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với văn kiện này. Theo đó, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế bao gồm các nội dung: tự do có, theo
hoặc thay đổi một tôn giáo hay tín ngưỡng do mình lựa chọn; tự do bày tỏ tín
ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người
khác, công khai hoặc không công khai dưới các hình thức như thờ cúng, cầu
nguyện, thực hành và truyền giảng.
- Hiến
chương của Liên hợp quốc, 1945, tại phần mở
đầu, đã tuyên bố: “Khẳng định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền
cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và
nữ,...” [7, tr. 128].
Khoản 3, Điều 1 (Chương I) đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con
người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam
nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” [7, tr. 132].
Điều 55, Mục c (Chương IX, Hợp tác quốc tế về kinh tế và xã hội) ghi nhận
Liên hợp quốc khuyến
khích: “Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của
tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo” [7, tr. 138].
- Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền,
1948 (The
Universal
Declaration
of Human Rights - UDHR) được Đại Hội
đồng Liên hợp quốc thông
qua và công
bố theo Nghị quyết số 217A (III)ngày 10-12-1948, gồm Lời nói đầu
và 30 điều. Lần đầu tiên, Đại Hội đồng
Liên hợp quốc có một
văn bản tuyên
ngôn chính thức về nhân quyền, tạo cơ sở để Liên hợp quốc cụ thể
hoá thành các công ước mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia
thành viên trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người nói chung, các quyền về
dân sự, chính trị nói riêng trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi
nhận trong Điều 18 như sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tựdo thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thứccá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư” [6, tr. 240, 241]. UDHR đã kế thừa và
phát triển tư tưởng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn độc
lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789.
Điểm phát triển ở đây là UDHRquy định về
quyền này cụ thể và chặt chẽ hơn.
Để thực hiện được các quyền con người
trong lĩnh vực dân sự, chính trị, xã hội, trong đó
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, UDHR đã xác định các
bảo đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ quyền con
người: “Mọi người sinh
ra đều được tự do và
bình đẳng về nhân phẩm và các
quyền” (Điều 1); “Mọi người đều được hưởng tất cả
các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên
ngôn này mà không có bất kỳ sự phân
biệt, đối xử nào về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,…” (Điều 2)
[6, tr.236, 237]; “Mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất
kỳ sự phân biệtnào. Mọi người đều
có quyền được bảo vệ một
cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào vi phạm
bản Tuyên ngôn này, và chống
lại bất
kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy” (Điều 7)
[6, tr. 238].
Tuy
nhiên, UDHR cũng đề cập đến
những giới hạn trong việc thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng,
tôn giáo tại Điều 29,
theo đó, có thể hiểu rằng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền
tuyệt đối, mà là quyền có thể bị giới hạn. Cụ thể:
“1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với
cộng đồng, là nơi
duy nhất mà ở đó nhân
cách của bản thân họ có thể
phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi
hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật
tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc.” [6, tr. 244].
- Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (The International Covenant on Civil
and Political Rights - ICCPR) được thông qua
và để ngỏ cho các quốc
gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 2200 (XXI), ngày
16-12-1966, có hiệu lực từ ngày 23-3-1976. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
được quy định với bốn nội dung cụ thể, trong đó nội dung thứ nhất quy định gần giống với
Điều 18 của bản UDHR. Nhưng khái
niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong ICCPR được ghi nhận cụ thể hơn tại
Khoản 1, Điều 18:“Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và
tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín
ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ
tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người
khác, một cách công khai hoặc
kín đáo dướicác hình thức như thờ cúng, cầu
nguyện, thực hành và truyền
giảng” [24, tr. 242].
Ngoài ra,
trong ICCPR, khái niệm về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được bổ sung thêm ba nội dung, làm cho
quan niệm về quyền này rõ ràng và đầy đủ hơn, đó là: không ai bị ép buộc làm
những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ (Khoản 2, Điều 18); Quyền tự do bày
tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới
hạn bởipháp luật và khi
sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc
đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác (Khoản 3,
Điều 18);Các quốc gia
thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp
pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý
nguyện của riêng họ (Khoản 4, Điều 18) [6, tr. 280].
Bốn nội dung
của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện tại Điều 18 của ICCPR gắn kết với
nhau trong mối tương quan mật thiết, vừa nói lên được tính phổ quát của quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa “để ngỏ” cho những quốc gia với những đặc thù
riêng có thể thực hiện được. Vì vậy, tính khả thi trong hiện thực của nó rất
cao.
Cho đến nay, nhìn tổng quát, đối với
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được các văn bản pháp lý quốc tế quy
định như sau:
1.
Tuyên bố sự tồn tại của quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo;
2.
Mọi người được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách công khai
một mình hay trong cộng đồng;
3.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tuy nhiên, các
văn bản chính trị
- pháp lý quốc tế cũng khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
không phải là một quyền tuyệt đối, mà là một quyền có hạn. Các quốc gia có thể
hạn chế việc thực hiện
quyền này nếu thấy đó là cần
thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khoẻ đạo đức của cộng
đồng, hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác khỏi bị xâm hại.
Những
hạn chế của việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định trong
pháp luật quốc
tế được các quốc gia thành viên tuân thủ áp dụng trong pháp luật nước mình một
cách triệt để. Theo đó, các loại hình tổ chức tôn giáo hoặc hoạt động tôn giáo
làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi phạm đạo đức,…
đều không cho phép hoạt động, thậm chí một số quốc gia còn sử dụng vũ lực để
loại bỏ.
Tài
liệu tham khảo:
1. Ban Tôn giáo
Chính phủ (2008), Văn bản pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng,
tôn giáo,Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
2. Bộ luật dân
sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/1/1995, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ luật hình
sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 21/12/1999, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ luật tố
tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hiến
pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), NXb Lao
động, Hà Nội.
6.
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, NXb Công an nhân dân, Hà Nội.
7. Chủ biên:
Phạm Khiêm Ích (1998), Quyền con người các văn kiện quan trọng, Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
8. TS. Tường
Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Nhận xét
Đăng nhận xét