Pháp luật Việt Nam về tôn giáo 


Trong điều kiện đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân sẽ góp phần tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tập hợp đượquần chúng có đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo đảm cho cho người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Điu đó không những được nêu rõ ở những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng mà Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định rõ nội dung quyền, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền đó cho người dân phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết gia nhập ngày 24-9-1982Việt Nam cam kết tôn trọng và thực hiện có hiệu quả các quyền được Công ước ghi nhận bằng hoạt động lập pháp cũng như bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trên thực tế.
 Trong pháp luật Việt Nam, chế định quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia ban hành. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trước hết được ghi nhận tại Điều 70, Hiến pháp năm 1992, trong đó khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước (Điều 70) [5, tr. 147].
 Quy định này của Hiến pháp đưc cụ th hoá trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy” (Điu 1) [1, tr. 7].
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, bên cạnh các quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hoá trong nhiều bộ luật, luật quan trọng khác của Nhà nước Việt Nam như: Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân như sau: “Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”[2, đ47]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,... Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Căn c vào những giới hạn của quyn t do tín ngưỡng, tôn giáo quy định ở Điu 18 ICCPR, Điều 8 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt, khẳng định: “Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng; tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân” [2, tr. 11]; mặt khác cũng quy định phạm vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái pháp luật, chính sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác” [2, tr. 11].
Điều 15 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bị đình chỉ nếu thuộc một trong các trường hợp sau: 1. Xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật t công cộng hoc môi trường; 2. Tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyn thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. 3. Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh d, tài sản của người khác; 4. Có hành vi vi phạm pháp luật nghm trọng.
Bộ luật Hình sự quy định về tội phá hoại chính sách đoàn kết trong đó có hành vi “gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức xã hội” [3, đ87], thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Hoặc“người nào có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm” [3, đ129].
Nhìn chung, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã thể hiện được đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Điều 38 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có nêu: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó” [1, tr. 24]. Điu đó chứng tỏ s tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tếnhững tiến bộ vượt bậc và những cố gắng rất lớn của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người nói chung, quyn tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Tôn giáo Chính phủ (2008), Văn bản pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo,Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
 2. Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/1/1995, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
 3. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 21/12/1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
 4. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
 5Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), NXb Lao động, Hà Nội.
6. Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người NXb Công an nhân dân, Hà Nội.
 7. Chủ biên: Phạm Khiêm Ích (1998), Quyền con người các văn kiện quan trọng, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.

 8. TS. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

Nhận xét

  1. Pháp luật Việt Nam đã rõ, mọi người dân Việt Nam đều hiểu, các tín đồ tôn giáo đều phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thế mà lắm kẻ rỗi hơi ở tận đẩu đâu giám phán xét Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo. Thực xấu hổ.

    Trả lờiXóa
  2. Những kẻ rỗi hơi ở tận đẩu tận đâu này chắc không phải người Việt Nam nên không biết câu: "mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh".

    Trả lờiXóa
  3. Việt Nam rất tôn trọng và tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH TRÊN INTERNET VÀ MẠNG XÃ HỘI TRONG QUÂN ĐỘI